TP. Mỹ Tho: Lịch Sử Chùa Vĩnh Tràng

Thứ tư, 11/07/2018, 04:26 GMT+7
TP. Mỹ Tho: Lịch Sử Chùa Vĩnh Tràng

TP. Mỹ Tho: Lịch Sử Chùa Vĩnh Tràng

CHÙA VĨNH TRÀNG
Đường Nguyễn Trung Trực, xã Mỹ Phong, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang

v1_9

Chùa Vĩnh Tràng xưa vốn là chỉ là cái am nhỏ, mái lá vách đất, do tri huyện Bùi Công Đạt (người làm quan dưới triều vua Minh Mạng) phát nguyện xây cất vào đầu thế kỷ 19 để tu dưỡng tinh thần sau khi về hưu. Vì vậy người dân địa phương quen gọi là “Chùa Ông Huyện”. 
Lúc bấy giờ có Hòa thượng Minh Khiêm – Hoằng Ân là một vị danh Tăng từ chùa Giác Lâm vân du về vùng đồng bằng sông Cửu Long hóa đạo. Đến Mỹ Tho, Ngài được Hòa thượng Từ Lâm – Trụ trì chùa Bửu Lâm kính trọng, mời về chùa cầu Pháp và thỉnh Ngài thuyết giảng Phật pháp cho Phật tử, vợ chồng ông huyện Đạt lúc này cũng đến thính Pháp. Hòa Thượng giảng kinh rất hay nên ông bà huyện Đạt xin quy y, làm Phật tử tại gia, và thỉnh Hòa Thượng về viếng thăm ngôi chùa của mình. Được Hòa thượng Minh Khiêm giới thiệu, ông bà huyện Đạt lên chùa Giác Lâm, Gia Định (Nay là TP. Hồ Chí Minh) thỉnh Hòa thượng Huệ Đăng về trụ trì ngôi am tranh của mình. 
Năm 1849, Hòa thượng Thích Huệ Đăng vận động tín đồ xây dựng thành ngôi đại tự, theo lối kiến trúc của chùa Giác Lâm ở Gia Định, nhưng to lớn hơn, với 178 cây cột, 2 sân thiên tỉnh, 5 lớp nhà và hoàn thành vào năm 1849 với tên Vĩnh Trường, xuất phát từ hai câu đối: “Vĩnh cửu đối sơn hà; Trường tồn tề thiên địa”. Người dân vùng lân cận đến nay vẫn quen gọi là chùa Vĩnh Tràng. Hòa thượng viên tịch vào năm 1864 giữa lúc công trình xây dựng còn đang dang dỡ.

Người kế vị hòa thượng Huệ Đăng là hòa thượng Minh Đề, sư đệ của Ngài, nối tiếp công việc trùng tu ngôi chùa. Không bao lâu hòa thượng Minh Đề cũng viên tịch, chùa Vĩnh Tràng rơi vào cảnh hương tàn khói lạnh. Thời gian này có quý Thầy: Quảng Ân, Minh Truyện nối tiếp nhau trông coi chùa nhưng không đủ duyên nên quý ngài ở lại chùa không lâu rồi đi nơi khác.
Năm 1890 tín đồ đã đến chùa Sắc Tứ Linh Thứu thỉnh hòa thượng Trà Chánh Hậu húy Quảng Ân về trụ trì chùa Vĩnh Tràng; Ngài người gốc Minh Hương, quê ở Mỹ Tho, là đệ tử Hòa thượng Minh Phước gốc Tổ đình Bửu Lâm. 

Năm 1895 Hòa thượng Chánh Hậu cùng bổn đạo trùng tu toàn bộ ngôi chùa. Đến 1904, do một trận bão lớn, chùa lại bị tàn phá, vì vậy mà 3 năm sau (1907) chùa Vĩnh Tràng mới được trùng tu hoàn thành. Hòa Thượng còn cho xây dựng lại Bảo tháp Tổ Huệ Đăng và phần mộ của ông bà Bùi Công Đạt để tưởng niệm công ơn các bậc tiền bối. Ngoài ra Hòa Thượng còn mua thêm 12 sở đất để làm tài sản cho chùa, giúp cho hậu thế có cơm gạo để an tâm tu học.
Hòa thượng Chánh Hậu viên tịch ngày 9 tháng 9 năm 1923, hưởng thọ 72 tuổi. Trụ trì chùa Vĩnh Tràng 33 năm (1890 -1923).  Kế tục sự nghiệp của Ngài là Hòa thượng Minh Đàn, pháp danh Tâm Liễu, tự An Lạc. Ngài người làng Mỹ Phong, tổng Thạnh Phong, tỉnh Định Tường (nay là tỉnh Tiền Giang). Ngài là đệ tử của Hòa thượng Chánh Hậu.
Năm 1930 Hòa thượng Minh Đàn đứng ra trùng tu lại chùa Vĩnh Tràng với quy mô kiểu cách hài hòa giữa văn hóa xứ chùa Tháp và lối kiến trúc phương Tây như hiện nay. Đặc biệt Ngài cho xây dựng lại cổng Tam Quan, mặt tiền chùa, Chánh điện, nhà Thờ Tổ và Bảo tháp Hòa thượng Bổn sư bằng đá trắng của xứ Đà Nẳng.
Cổng Tam Quan tráng lệ do những nghệ nhân xứ Huế thực hiện 1933. Về kinh phí được hai ông Huỳnh Tri Phú và Lý Văn Quang hỗ trợ. Chiếc cổng giữa bằng sắt lâu nay vẫn đóng kín. Hai cổng bên xây gạch vươn cao như hai tòa lâu đài cỗ. Nét độc đáo của Tam Quan chùa Vĩnh Tràng thể hiện ở nghệ thuật ghép mảnh sành, mảnh sứ để tạo nên những bức tranh với màu sắc hài hòa, minh họa những sự tích nhà Phật, những truyện tích dân gian và những đề tài Tứ quý, Tứ linh, hoa lá… Tầng lầu thượng của cổng Tam Quan có vòm cửa rộng. Bên phải đặt tượng Hòa thượng Chánh Hậu, bên trái đặt tượng Hòa thượng Minh Đàn. Cả 2 tượng này đều đắp bàng xi măng giống như người thật, do điêu khắc gia Nguyễn Phi Hoanh thực hiện.

v17_8


Tháng 10/2005 (tức tháng 9 năm Ất Dậu PL.2549) BTS GHPGVN tỉnh Tiền Giang quyết định thay đổi 2 tượng ở cổng này, Tượng Phật Di Đà thay thế tượng Hòa thượng Chánh Hậu, tượng Phật Thích Ca thay thế hòa thượng Minh Đàn. Tượng của hai Hòa thượng được đem vào tôn trí tại nhà Tổ cho đến ngày nay.

Về tổng thể, chùa được xây dựng theo dạng chữ “Quốc” của Hán tự, giống như các chùa của ngưới Hoa, nhưng chùa Vĩnh Tràng có những hoa văn theo kiểu thời Phục Hưng, vòm cửa theo kiểu La Mã, bông sắt theo phong cách Pháp, nền lót gạch men Nhật Bản. Riêng chữ Hán được viết theo kiểu chữ triện cổ kính, còn chữ quốc ngữ viết theo lối chữ Gô-tích. Nhìn tổng quan bên ngoài, kiến trúc chùa là sự giao thoa giữa Á và Âu một cách lạ mắt nhưng hài hòa. Tuy nhiên, kiến trúc bên trong chùa vẫn mang đậm lối kiến trúc điêu khắc truyền thống Việt Nam.

Ngôi chùa gồm có bốn hạng mục nối tiếp nhau (tiền đường, chánh điện, nhà tổ, nhà hậu), có diện tích 14.000m², dài 70m, rộng 20m, vách tường xung quanh được xây bằng xi măng, toàn bộ cột được làm bằng gỗ quý, nền đúc cao 1m. Riêng mặt trước của tiền đường thì được xây dựng theo lối kiến trúc hài hòa Âu – Á với những hàng cột thanh mảnh, vòm cong và hoa văn nhiều màu sắc. Đi vào bên trong ta sẽ thấy một màu vàng óng ánh được thếp trên các hình chạm, trên các tượng Phật. Đáng chú ý hơn cả là những đôi long trụ trong ngôi chánh điện, đó là những cây cột tròn to, bằng gỗ quý kiến trúc theo kiểu "thượng thu hạ cách".

Phía trong ngôi chính điện và nhà tổ làm theo kiểu Trung Quốc nhưng vẫn giữ được nét kiến trúc Việt Nam và kiểu nhà Nam bộ năm gian hai chái; Nối hai ngôi này là hai dãy Đông, Tây lang một giếng trời có hòn non bộ ở giữa. Đứng trên hòn non bộ nhìn về mặt sau ngôi chánh điện, hai bên nhà cầu, mặt trước nhà tổ, ta sẽ thấy lối kiến trúc Rôma với những hàng đá hoa màu sắc sặc sỡ kiểu Pháp được trang trí trên thành nóc, trên những cột xây bằng xi măng kiểu cách.

v40

Chùa còn bảo tồn 60 tượng quý, được tạo tác bằng đồng, gỗ, đất nung; và tất cả đều được thếp vàng rực rỡ; Trong đó có giá trị nghệ thuật nhất là bộ tượng mười tám vị La hán nằm ở hai bên tường chánh điện được tạc từ gỗ mít vào đầu thế kỷ 20, mỗi tượng cao khoảng 0,8m, bề ngang gối là 0,58m. Bộ tượng này do tài công (thợ) Nguyên cùng học trò chạm khắc mang nét riêng của khu vực, là đỉnh cao của nghệ thuật tạc tượng tròn của khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Mỗi vị La Hán cưỡi trên lưng một con mãnh thú, tay cầm bửu bối, tượng trưng cho các giác quan mà giáo lý nhà Phật gọi là “lục căn” (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý).

v11_6

Chùa có 3 tượng đồng (Di Đà, cao 98cm, Quan Âm và Thế Chí cao 93cm) được tạo tác giữa thế kỷ 19; bảy bộ bao lam tuyệt đẹp thếp vàng chạm hình Bát tiên, thần Mặt trời và thần Mặt trăng, do các nghệ nhân địa phương chạm trổ công phu vào khoảng 1907-1908. Ngoài ra, còn có chiếc đại hồng chung mang tên Pháp Bảo Chuông cao 1,2m, nặng khoảng 150kg được đúc giữa tháng 5 năm 1854 trên thân có khắc chữ "Vĩnh Trường Tự". Rất tiếc là chuông không còn sử dụng được vì nằm lâu dưới nước trong thời gian bị thất lạc.

v1_10

v41

Trong chùa hiện nay còn hơn 20 bức tranh sơn thủy rất giá trị. Tuy ảnh hưởng tranh vẽ Trung Quốc nhưng những bức vẽ này mang đậm nét dân gian Việt Nam, in hình "mai, lan, cúc, trúc", hình phong cảnh Việt Nam rất nên thơ. Đó là công trình của Long Giang cư sĩ phác họa năm 1904. Những bức hoành, câu đối trong chùa được điêu khắc chữ nổi thếp vàng như những chữ "Hoàng kim bửu điện" được khắc từ 1851 đến nay vẫn còn khá đẹp.
Phía trong Nhà Tổ, ngoài những hàng cột với những cây gỗ quý, ở mỗi gian đều có gắn bao lam chạm trổ rất công phu, những câu liễng đối được viết bằng chữ Hán rất đẹp. Phía trước nhà Tổ là trai đường thờ Bồ tát Chuẩn đề; Bên trong là ban thờ chư Hòa thượng tiền bối trụ trì và tu tập tại Chùa; Hai ban tả hữu là ban thờ chư vị Ưu bà tắc, Ưu bà di có công đóng góp xây dựng trùng hung chùa Vĩnh Tràng.
Phía sau Nhà Tổ là Ban thờ Ông Giám, kế đến có một giếng trời nữa cùng hai dãy nhà  nối liền với Nhà Hậu, nơi hiện nay được sử dụng làm Nhà Bếp. Tiếp theo nhà bếp là khu nhà ăn dành cho Phật tử.
Xung quanh chùa là những vườn cây cảnh trồng nhiều loại hoa thơm cỏ lạ, những hồ nước thơm ngát hương sen và những cây cổ thụ che trùm bóng mát, tạo nên sự hài hòa tuyệt vời giữa khung cảnh thiên nhiên với không gian kiến trúc, khiến chùa thêm cổ kính, thâm nghiêm. 
Theo các chuyên gia văn hóa thì vẻ đẹp của Chùa tập trung ở nghệ thuật tạo hình và có thể xem chùa Vĩnh Tràng là sự phản ánh lịch sử mỹ thuật của đất Tiền Giang. 
Theo Nội San Đất Phật Định Tường số 18, trước năm 1975 chùa được “Liệt Hạng Di Tích Thắng Cảnh của Quốc Gia”. 

v38_1

 

v39_1
Ngày 30 tháng 8 năm 1984 chùa được xếp hạng Di Tích Lịch Sử Văn Hóa cấp Quốc Gia. Và được xếp hạng Di Tích Nghệ Thuật Kiến Trúc Cấp Quốc Gia ngày 6 tháng 12 năm 1989. Năm 2007, chùa Vĩnh Tràng được kỷ lục Guinness Việt Nam công nhận là “Ngôi chùa đầu tiên ở Việt Nam có phong các kiến trúc kết hợp giữa phương Đông và phương Tây”. Năm 2013, Liên hiệp các hội UNESCO Việt Nam công nhận chùa Vĩnh Tràng là Điểm Du Lịch Văn Hóa Tâm Linh trong chương trình Việt Nam – Những Điểm Đến Ấn Tượng

Bảng Tóm tắt các đời Trụ trì chùa Vĩnh Tràng:
1. Hòa thượng Huệ Đăng: Trụ trì từ năm 1849 – 1864.
2. Thầy Minh Đề: Trụ trì năm 1864
3. Thầy Quảng Ân
4. Thầy Minh Truyện
5. Hòa thượng Chánh Hậu: Trụ trì từ năm 1890 - 1923
6. Hòa thượng Minh Đàn: Trụ trì từ năm 1923 – 1939
7. Hòa thượng Phật Ấn: Trụ trì từ năm 1939 - 1943
8. Hòa thượng Thích Trí Long: Trụ trì từ năm 1954 – 1987
9. Hòa thượng Thích Bửu Thông: Trụ trì từ năm 1987 – 1988
10. Hòa thượng Thích Hoằng Từ: Trụ trì từ năm 1988 - 1991
11. Hòa thượng Thích Hoằng Thông: Trụ trì từ năm 1992 - 1994
12. Hòa thượng Thích Nhựt Long: Trụ trì từ năm 1995 - 2002
13. Hòa thượng Thích Huệ Minh: Trụ trì từ năm 2002 đến nay.
Từ khi đảm nhận chức vụ Trưởng BTS GHPGVN tỉnh Tiền Giang, cũng là Trưởng Ban quản trị chùa Vĩnh Tràng, Hòa thượng Thích Huệ Minh đã từng bước kiến tạo lại khuôn viên ngôi cổ tự này ngày một khang trang, tú lệ.
Năm 2002, Hòa Thượng cho sửa ao cá và làm lại hòn Non bộ (bên tay trái từ trong chùa nhìn ra); Làm hang rào bao bọc xung quanh khuôn viên Chùa và các công trình phụ phía sau.
Năm 2003, để có nơi tổ chức các Hội nghị lớn của Phật giáo tỉnh nhà, Hòa thượng Thích Huệ Minh đã cho xây dựng Giảng đường Huệ Đăng I với sức chứa khoảng 500 chổ ngồi.
Năm 2004, cổng chùa phía trước lâu ngày bị nghiêng nên Hòa Thượng cho phục dựng lại. Đồng thời Ngài cũng cho xây dựng nhà Thiền phía bên tay phải từ trong chùa nhìn ra; Nơi này, ngày nay dùng làm Văn phòng Ban Trị Sự GHPGVN tỉnh Tiền Giang.
Năm 2007, Hòa thượng cho xây dựng công viên Di Đà nơi mãnh đất phía trước chùa vốn đã nhiều năm bị bỏ hoang; Tôn tạo pho tượng Phật A Di Đà cao 24m (bệ 6m, tượng 18m), đến năm 2008 thì hoàn thành, làm tăng thêm vẽ mỹ quan, thoáng mát mặt tiền ngôi già lam cổ kính.
Ngày 17 tháng giêng năm 2009, sau khi dọn dẹp khu đất rậm rạp nhiều năm phía trước bên tay phải chùa nhìn ra, Hòa thượng tiếp tục xin phép xây dựng công viên Di Lặc trên diện tích 5.000m2, thiết kế Tôn tượng đức Phật Di Lặc với chiều dài 27m, chiều rộng 18m và chiều cao 20m. Mặt bằng phía dưới Tôn tượng được thiết kế như ngôi nhà gồm một tầng trệt và một tầng lầu. Tầng trệt được dùng làm phòng họp, phòng tiếp khách của Ban Trị Sự GHPGVN và 5 phòng nghỉ dành cho khách Tăng. Tầng lầu được sử dụng làm Giới trường, nơi chư Tăng tại chùa Bố tát vào những ngày trưởng tịnh. Công trình hoàn thành vào ngày 7/3/2010.
Ngày 15 tháng 2 năm 2012, để tạo thêm khung cảnh uy nghiêm phía sau chùa, Hòa thượng Thích Huệ Minh tiến hành xây dựng tượng Phật Thích Ca Niết Bàn với phần đế tượng: dài 35m, cao 7m, ngang 18m. Phần thân tượng Phật cao 10m. Công trình hoàn thành vào ngày 26/3/2013.

Năm 2015, nhận thấy phía sau chùa vẫn còn một khu đất trống bị bỏ hoang, Hòa Thượng đã nhờ thiết kế và tiếp tục cho xây dựng công trình Bảo tháp Thất Phật và khu Giảng đường Huệ Đăng II làm nơi sinh hoạt học tập cho Lớp Cao Đẳng Phật học. Bảo Tháp được xây dựng với chiều cao 35m, gồm một tầng trệt và 7 tầng lầu; Tầng trệt thờ đức Phật Thích Ca Mâu Ni và các vị Bồ Tát; Các tầng lầu, mỗi tầng thời một vị Phật và ba vị A La Hán; Riêng tầng thứ 7 tôn trí 15 bộ kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Khu giảng đường Huệ Đăng II được thiết kế một trệt một lầu, bên trong là những dãy bàn ghế học, với sức chứa khoảng 200 chổ ngồi cho một phòng.

Đặc biệt, khi nói đến chùa Vĩnh Tràng, mọi người đều biết đây là trung tâm Phật giáo của tỉnh Tiền Giang; Nơi này được dùng làm Văn phòng BTS GHPGVN tỉnh Tiền Giang từ khi thành lập (năm 1983) cho đến nay. Chùa cũng là nơi tổ chức các sự kiện quan trọng của Phật giáo tỉnh nhà như: Đại hội Đại biểu Phật giáo tỉnh, mở Đại Giới đàn truyền giới cho Tăng ni, tổ chức khóa An cư kiết hạ, tổ chức Đại lễ Phật Đản, Các lễ Tưởng niệm chư Phật, Bồ tát, chư lịch đại tiền bối Hòa thượng Tổ sư, …
Năm 2016, với cương vị Hiệu Trưởng Trường Trung cấp Phật học tỉnh Tiền Giang, mong muốn đào tạo được nhiều thế hệ Tăng tài làm rường cột cho Phật giáo tỉnh nhà lâu dài về sau, Hòa Thượng tiến hành các thủ tục xin phép và chánh thức mở lớp Cao Đẳng Phật học Tiền Giang khóa I. Văn phòng và lớp học đặt tại Giảng đường Huệ Đăng II, chùa Vĩnh Tràng.
Tâm sự về chùa Vĩnh Tràng, Hòa thượng Thích Huệ Minh chia sẻ:
(Phần phỏng vấn)

Xin khép lại ngôi chùa với ý nghĩa của đôi câu đối phía trước chánh điện rằng:
- Vĩnh cảm từ ân hỉ chư bát kiết cấu tinh lương tam bảo dao đàn tăng tráng lệ.
- Trường sanh lạc thổ nguyện đại chúng quy y tính thiện ngũ châu thế giới tận quang minh.
Nghĩa là:
- Nhờ ơn Phật Tổ mãi ban vui đến cho đại chúng khiến ngôi chùa này ngày càng tráng lệ.
- Nơi đây an lạc dài lâu như cảnh Tây phương, làm chổ quy kính cho đại chúng và lan rộng khắp năm châu.

Ban Biên tập Lịch sử Tự viện Phật giáo tỉnh Tiền Giang xin giới thiệu ngôi chùa đến với bạn đọc.

Sau đây là một số hình ảnh tư liệu chùa Vĩnh Tràng:

v18_6

v_2v3_8v5_10v6_10v7_8

v29_3

v12_7

v13_8

v2_11

v40_1v21_5

v34_1v10_7v14_7

v2_10

v8_8v16_6v19_6v20_5

 

v35_2v24_5

v25_5

v26_3

v15_7

v32_2v23_4v27_4v30_2

v28_3v36v31_2

v37_1

 


Người viết : Ban TTTT Phật Giáo Tỉnh Tiền Giang